Quân Phổ tiến công Chiến_tranh_Pháp-Phổ

Quyết định của quân Đức là tấn công nước Pháp từ hướng Đông và tiến chiếm Paris theo con đường thẳng lối nhất đã khiến chiến sự không bị lan tới Bỉ, do đó nước Anh vẫn giữ trung lập. Số là do người Đức đã tuân thủ Hiệp định Luân Đôn vào năm 1839 thừa nhận sự trung lập của Vương quốc Bỉ. Đế quốc Nga – do được Bismarck hỗ trợ trong cuộc đàn áp khởi nghĩa Tháng Giêng tại Ba Lan hồi năm 1863, đã giữ hoàn toàn trung lập.[17] Và chưa kể là vaò tháng 10 năm 1870 sau khi đại phá quân Pháp trong trận chiến Sedan thì Bismarck sẽ còn giúp nước Nga lấy lại chủ quyền vùng Hắc Hải – vốn bị mất kể từ sau khi bị liên quân Anh - Pháp - Thổ Nhĩ Kỳ đánh bại trong cuộc Chiến tranh Krym.[37] Tình thế cho thấy là trong cuộc chiến quân Đức đã sớm giành lại thế chủ động từ tay quân địch,[20] và cuộc tiến công thẳng vào nước Pháp của Quân đội Đức đã làm cho cả châu Âu phải bất ngờ.[23]

Trận Wissembourg

Bài chi tiết: Trận Wissembourg

Khi biết được Đệ Nhị đại quân Phổ chỉ còn cách Saarbrücken 30 dặm (48 km), gần thị trấn Wissembourg, Tướng Le Bœuf và Napoleon III quyết định rút lui về những vị trí dễ phòng thủ hơn. Tướng Frossard, dù chưa nhận được mệnh lệnh, đã vội vã rút các đơn vị của Đạo quân sông Rhine từ Saarbrücken về Spicheren và Forbach.[99]

Thống chế MacMahon, cho tới lúc này ở gần Wissembourg nhất, dàn bốn sư đoàn của mình trên một diện rộng 20 dặm để đề phòng một cuộc tấn công của quân Phổ. Việc bố trí binh lực này xuất phát từ việc hậu cần cho quân đội không được bảo đảm, khiến cho các sư đoàn phải tự lo kiếm lấy lương thực cho mình. Tình hình đã xấu còn bị làm cho trở nên tồi tệ hơn bởi tướng Auguste-Alexandre Ducrot, chỉ huy sư đoàn 1 của Thống chế MacMahon. Ông ta thông báo với tướng Abel Douay, chỉ huy sư đoàn 2 ngày 1 tháng 8 rằng "Thông tin mà tôi nhận được cho thấy không có những lực lượng đáng kể địch quân ở các vị trí tiền phương, và quân địch không có ý định chuyển sang tấn công".[100] Hai ngày sau, ông ta cho MacMahon biết là ông ta không phát hiện ra "dù chỉ 1 vị trí địch quân[...], theo tôi thì mối đe dọa từ quân Bayern chỉ là trò bịp bợm". Dù tướng Ducrot coi nhẹ khả năng quân Đức tấn công, nhưng Thống chế MacMahon vẫn tìm cách cảnh báo các sư đoàn dưới quyền, nhưng không có kết quả. Cùng ngày hôm đó, tại kinh thành Paris, một trong những người con của Napoléon III làm lễ nổ súng đại bác, báo hiếu cuộc chiến tranh bùng nổ, với những tiếng hô vang lên "Về phía Berlin" (À Berlin).[55]

Trận giao chiến đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra ngày 4 tháng 8 năm 1870. Cuộc giao chiến này nhỏ, nhưng đẫm máu, với sư đoàn đơn lẻ của Tướng Douay, thuộc Quân đoàn 1, cùng với các toán quân kỵ binh phối thuộc, với nhiệm vụ chính là canh gác biên giới, bị Đại quân 3 của Đức tấn công ào ạt, dù các đơn vị Đức phối hợp kém. Trời về chiều, các đơn vị của 1 quân đoàn Bayern và 2 quân đoàn Phổ cũng bị cuốn vào cuộc giao tranh, được pháo binh Phổ hỗ trợ khoét những chỗ hở vào hàng phòng ngự của thị trấn. Douay thoạt đầu phòng ngự khá chắc chắn, vì có lợi thế súng trường Chassepot với tầm bắn xa và rất chính xác, nhưng lực lượng của ông ta quá mỏng và dàn trải rộng, nên khó phòng ngự được các vị trí của mình, bản thân tướng Douay cũng bị giết khi một xe đạn phát nổ. Dù ai lên nắm quyền chỉ huy thay ông ta đi chăng nữa, thì việc thị trấn bị quân Đức vây kín cũng đã đặt toàn bộ sư đoàn vào một tình thế hiểm nghèo.[101]

Cuộc giao tranh bên trong thị trấn trở nên hết sức dữ dội, giao tranh diễn ra trên từng căn nhà, từng góc phố. Dù bộ binh Phổ liên tục tấn công, binh lính sư đoàn 2 vẫn ngoan cường phòng ngự các vị trí của mình. Tuy nhiên dân chúng Wissembourg tỏ ra tuyệt vọng, đầu hàng quân Đức vì cho rằng tiếp tục kháng cự là vô ích, từ chối hỗ trợ cho binh lính Pháp tiếp tục kháng cự. Những binh lính Pháp không chịu đầu hàng rút lui về phía tây, bỏ lại chừng 1000 người bị bắt làm tù binh, cùng tất cả số đạn dược.[102] Quân Phổ đã sẵn sàng thừa thắng xông lên, trong khi người Pháp vẫn tiếp tục tỏ ra hết sức mù quáng về sức mạnh cỗ máy chiến tranh Phổ đang dần hiển hiện.

Trận Spicheren

Bài chi tiết: Trận Spicheren
Bản đồ hướng tấn công của quân Đức và Phổ ngày 5 và 6 tháng 8 năm 1870

Trận Spicheren, diễn ra ngày 5 tháng 8, là trận thua thứ hai trong ba trận đại bại của quân Pháp. Tướng Helmut von Moltke ban đầu định cầm chân đạo quân của Thống chế Bazaine bên bờ sông Saar cho tới khi ông ta có thể tấn công với Đệ Nhị đại quân đánh đằng trước và Đệ Nhất đại quân đánh tạt sườn trái, trong khi Đệ Tam đại quân đánh vòng tập hậu. Viên tướng già nua Karl von Steinmetz vì ganh tỵ nên cứ cho tiến quân không theo kế hoạch, dẫn Đệ Nhất đại quân về hướng nam từ vị trí đóng quân bên bờ sông Moselle. Ông ta tiến thẳng về hướng thị trấn Spicheren, và trong quá trình hành quân khiến cho Hoàng thân Frederick Charles bị cắt rời khỏi các đạo kỵ binh tiền phương của ông[103].

Về phía quân Pháp, việc lên kế hoạch sau trận thảm bại tại Wissembourg trở thành vấn đề sinh tử. Tướng Le Bœuf, giận dữ điên người, dự định mở cuộc tấn công theo hướng Saar để bù đắp lại thua thiệt. Tuy nhiên, việc lên kế hoạch cho trận giao tranh kế tiếp lại dựa chủ yếu vào tình hình thực tế đang diễn ra, hơn là vào cảm xúc bảo vệ danh dự bị thương tổn, như tướng Wolff nhắc nhở ông và bộ chỉ huy của mình là việc tiếp tế xa hơn vùng Saar là bất khả thi. Do đó, các cánh quân Pháp phải tiến hành chiếm lĩnh các vị trí phòng thủ đề phòng ngự mọi hướng tấn công có thể của địch, nhưng đồng thời việc này cũng làm cho quân Pháp không thể hỗ trợ cho nhau được[104].

Trong khi đạo quân Pháp dưới quyền tướng MacMahon nghênh chiến với Đệ Tam đại quân Đức trong trận Worth, Đệ Nhất đại quân Đức dưới quyền tướng Steinmetz hoàn tất cuộc hành quân về hướng tây từ Saarbrücken. Quân tuần tiễu của Đệ Nhị đại quân Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Phổ Friedrich Karl phát hiện các đám cháy nghi binh lân cận và đạo quân của tướng Frossard ở đằng xa, trên một bình nguyên phía nam thị trấn Spicheren, nên coi đó là dấu hiệu đạo quân của Frossard đang rút chạy. Lờ đi kế hoạch của tướng Moltke, cả hai đạo quân Đức tiến công Quân đoàn 2 của Pháp phòng ngự ở khoảng giữa Spicheren và Forbach[105].

Quân Pháp không biết rằng mình chiếm ưu thế về binh số khi trận đánh nổ ra, vì Đệ Nhị đại quân Đức không đồng loạt tấn công. Tướng Frossard cho là cuộc tấn công của quân Đức chỉ là những cuộc đụng độ lẻ tẻ, nên không gọi viện binh từ các đạo quân khác. Cho tới khi ông nhận biết được các lực lượng đối địch thì đã quá muộn. Liên lạc giữa tướng Frossard và các sĩ quan chỉ huy quân dự bị dưới quyền Thống chế Bazaine chậm chạp đến mức tới khi các lực lượng dự bị nhận được lệnh tiến về Spicheren thì binh lính Đức thuộc Đệ Nhất và Đệ Nhị đại quân đã tấn công lên đến các cao điểm[106]. Vì quân dự bị chưa đến nơi, nên tướng Frossard nhầm lẫn một cách tai hại là quân mình đang đứng trước nguy cơ bị đánh tạt sườn, vì quân Đức của tướng von Glume xuất hiện ở Forbach. Thay vì tiếp tục phòng ngự cao điểm, khi trận đánh dịu đi lúc trời xẩm tối, ông ta cho quân rút về hướng nam. Quân Đức bị nhiều tổn thất vì súng trường chassepot hiện đại của Pháp, nên họ hết sức ngỡ ngàng sáng hôm sau khi phát hiện ra nỗ lực của họ không phải là vô ích - tướng Frossard đã rút chạy khỏi các vị trí phòng ngự trên bình nguyên[107]. Tuy cả hai đoàn quân đếu chiến đấu ác liệt, quân Đức đã đại thắng trận chiến này.[23]

Trong trận thắng vẻ vang của quân Đức tại Spicheren, các chiến sĩ Pháo binh Đức đã lập công lớn: họ bắn phá xuyên suốt 1200 thước qua dãy chiến hào của Pháp - một kỳ tích rực rỡ trên địa hình dốc. Đạn pháo với sức mạnh kinh khủng của Đức đã hủy diệt hoàn toàn dãy chiến hào Pháp. Một lần nữa, chiến thắng lớn này thể hiện sự hiểu quả vô song của những khẩu pháo hiệu Krupp. Một Đại tá Pháp thuộc Trung đoàn số 63 có than phiền về chiến bại này: "Quân ta nã súng trường suốt cả ngày mà vẫn không si nhê gì quân địch, chúng liên tục gia tăng quân số và đánh tạt sườn quân ta". Do đó, trận thắng tại Spicheren khắc họa nên nghệ thuật chiến dịch của Vương quốc Phổ: quyết đoán, có lợi thế về quân số và biết chọn địa điểm chính xác, để đánh tạt vô sườn và bao bọc quân thù. Quân Pháp đều hỗn loạn và các binh sĩ Pháp của Frossard cuối cùng đều "đói khát, và thấm mệt" nên không thể nào chiến đấu được nữa. Thống chế Bazaine - người cũng có trách nhiệm với chiến bại vì chậm trễ, gọi trận thua này là một "trận đánh quá tồi, vô dụng".[30]

Trận Wœrth

Bài chi tiết: Trận Wœrth
Aimé Morot, La bataille de Reichshoffen, 1887

Chỉ hai ngày sau (6 tháng 8 năm 1870), gần Wœrth tại thị trấn Frœschwiller, chưa đầy 16 km từ Wissembourg, hai đạo quân lại giao chiến một lần nữa. Quân Đức của Đệ Tam đại quân được tăng thêm quân dự bị, tổng số lên đên 140.000 quân. Quân Pháp cũng nhận được viện binh, nhưng viện binh của họ đến rất chậm, nên tổng số quân Pháp chỉ có 35.000 quân. Mặc dù phải chống lại đối phương đông gấp bội, quân Pháp vẫn cầm cự ở ngay ngoại vi Frœschwiller. Tới trưa, cả hai phe tham chiến đều phải chịu 10.000 thương vong, quân Pháp do bị tổn thất nhiều quá nên không thể tiếp tục kháng cự. Nguy hơn nữa là quân Đức đã chiếm được thị trấn Frœschwiller tọa trên đỉnh đồi nằm ngay ở trung tâm phòng tuyến quân Pháp. Không còn hy vọng giành chiến thắng và đứng trước nguy cơ bị tàn sát bởi quân Đức, quân Pháp rút lui khỏi chiến trường về phía tây, hy vọng liên hợp được với các cánh quân Pháp khác ở phía bên kia dãy núi Vosges. Đệ Tam đại quân Đức không truy kích quân Pháp mà dừng lại ở Alsace rồi chậm rãi di chuyển về phía nam, tấn công và tiêu diệt các đơn vị trú phòng Pháp ở các khu vực lân cận.

Trận Wœrth là trận chiến quan trọng đầu tiên của cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, với hơn 100.000 quân tham chiến. Đó cũng là trận giao tranh đầu tiên mà binh lính từ khắp các tiểu quốc Đức (Phổ, Baden, Bayern, Sachsen...) hợp đồng tác chiến. Vì việc này mà một số sử gia gọi chiến trường Wœrth là "cái nôi của nước Đức". Cái giá của chiến thắng không phải là nhỏ, quân Phổ mất 10.500 binh lính chết hoặc bị thương. Tình hình quân Pháp của tướng MacMahon còn bi đát hơn, họ mất 19.200 người chết hoặc bị thương và bị bắt làm tù binh[108]. Hoàng thái tử Friedrich Wilhelm - người anh hùng của trận thắng này, có ghi nhận:[31]

Hôm nay Ta đã toàn thắng tên Thống chế MacMahon, khiến đám quân của hắn phải tháo chạy hoàn toàn và hỗn loạn. Tới một mức độ mà có thể hiểu rõ được, cả Binh đoàn của hắn đều tham chiến, được tăng viện bởi Failly và Canrobet cùng với những lực lượng được mang đến từ Grenoble, một đội quân xấp xỉ khoảng 8 vạn tên đã chạm trán với Ta, Ta đã đưa 10 vạn chiến sĩ và trận tuyến. Trận giao chiến, mà, lại một lần nữa (!), làm chúng ta mất một số lượng lớn các Sĩ quan và chiến binh, phải được gọi là một trận đánh đích thực, nơi phần lớn đội quân của Ta giao đấu... Tổn thất của giặc Pháp nhất thiết thật là to lớn; bọn tử sĩ thây chất thành đống và cái vải đỏ của quân phục của chúng thể hiện mắt chúng nhắm lại ở nơi nào. Có 6 nghìn tên tù binh không bị thương được báo cáo cho Ta, trong đó gồm thâu những chỉ huy Tiểu đoàn và Trung đoàn, cùng với 100 tên Sĩ quan khác...
— Hoàng thái tử Friedrich Wilhelm

Trận Mars-la-Tour

Bài chi tiết: Trận Mars-la-Tour
Kỵ binh thiết giáp thuộc trung đoàn 7 Phổ xung phong vào trận địa pháo của Pháp trong trận Mars-La-Tour, ngày 16 tháng 8 năm 1870.

Với thế tiến công quân Phổ như chẻ tre, 130.000 quân Pháp bị mắc kẹt lại tại pháo đài Metz sau khi bị thua trong vài trận chiến. Họ định rời Metz để bắt liên lạc với các lực lượng Pháp tại Châlons, nhưng bị kỵ binh trinh sát của đại tá Oskar von Blumenthal phát hiện. Bốn ngày sau khi quân Pháp bắt đầu rút lui, ngày 16 tháng 8, lực lượng Phổ có mặt tại vùng này, chỉ khoảng 30 ngàn quân của Quân đoàn 3 (Đệ Nhị đại quân), dưới quyền tướng Konstantin von Alvensleben phát hiện ra quân Pháp gần Vionville, ở về hướng đông Mars-la-Tour.

Dù ít quân hơn quân Pháp đến 4 lần, quân đoàn 3 vẫn mở cuộc tấn công. Quân Pháp bị đánh tan, quân Phổ chiếm được Vionville, chặn đường rút về hướng tây của quân Pháp. Không còn đường rút, quân Pháp không còn cách nào khác ngoài việc tấn công, dẫn đến cuộc giao tranh lớn bằng kỵ binh cuối cùng ở Tây Âu. Giao tranh bùng nổ, quân đoàn 3 bị tổn thất nặng nề bởi hết đợt xung phong kỵ binh này đến đợt xung phong khác, mất hơn nửa quân số. Quân Pháp cũng mất bằng ngần ấy, khoảng 16 ngàn người, nhưng vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối về binh số so với quân Phổ.

Ngày 16 tháng 8, quân Pháp có cơ hội chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu trong hệ thống phòng ngự của Phổ để rút lui. Hai quân đoàn Phổ tấn công cánh quân tiền phương của Pháp vì tưởng rằng đó là cánh quân đoạn hậu của Đạo quân sông Meuse. Dù bị nhầm lẫn, nhưng hai quân đoàn Phổ vẫn cầm chân được toàn bộ quân Pháp trong suốt ngày hôm đó. Chống lại đối phương đông gấp 5 lần, nhưng với tinh thần hăng hái tuyệt vời, cộng với sự do dự tai hại từ phía quân Pháp, quân Phổ vẫn chiến thắng. Như vậy lực lượng Quân đội Phổ lại có thêm chiến thắng vinh quang, do đó dù có tổn thất đi chăng nữa thì sĩ khí, quân thanh sục sôi dâng trào, trước những chiến thắng liên tiếp của mình.[86]

Chiến thắng này ghi dấu cuộc tiến công chí tử của Lữ đoàn Kỵ binh số 12 của Phổ do Thiếu tướng Friedrich Wilhelm Adalbert von Bredow, được xem là cuộc tấn công bằng Kỵ binh thắng lợi cuối cùng trong lịch sử châu Âu.[34] Trong trận đánh này có sự tham chiến của hai người con của Thủ tướng Bismarck là Herbert von BismarckWilhelm von Bismarck. Trong đêm sau trận đánh Mars-la-Tour, khi đang dùng bữa tối với Quốc vương Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Moltke, Bismarck hay tin rằng Herbert đã hy sinh và Wilhelm thì bị thương chí mạng. Ông lập tức đi tìm các con của mình. Khi vào một trang trại tại một ngôi làng nơi chứa thương binh, ông thấy hai con của mình. Herbert không chết nhưng bị thương, còn Wilhelm thì đã bị ngã ngựa. Từ lúc đó, ông không bao giờ cho các con mình ra tham chiến nữa.[86]

Trận Gravelotte

Bài chi tiết: Trận Gravelotte
Juliusz Kossak, Battle of Gravelotte, quân Phổ trong trận Gravelotte, 1871

Trận Gravelotte, hay còn gọi là trận Saint-Privat, là trận chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ. Trận chiến diễn ra về phía tây Metz khoảng 10 km, thuộc tỉnh Lorraine, Pháp, nơi mà một ngày trước đó, sau khi chặn đường rút lui của quân Pháp theo hướng tây sau trận Mars-La-Tour, quân Phổ hội quân lại nhằm tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Pháp. Sự giáp phải hỏa lực quân Pháp của quân Phổ khi chủ động tấn công trong trận đánh ác liệt này đã khiến họ được so sánh với lực lượng tiến công trong trận Gettysburg vào năm 1863 thời Nội chiến Hoa Kỳ.[31]

Lực lượng liên hợp Đức, dưới sự chỉ huy của Đại tướng, Bá tước Helmuth von Moltke, gồm Đệ Nhất và đệ Nhị đại quân Liên minh miền bắc Đức, bao gồm 210 tiểu đoàn bộ binh, 133 liên đội kỵ binh và 732 cỗ trọng pháo, tổng cộng 188.332 sĩ quan và binh lính. Đạo quân sông Rhine của Pháp, chỉ huy bởi Thống chế François-Achille Bazaine, gồm 183 tiểu đoàn bộ binh, 104 liên đội kỵ binh, hỗ trợ bởi 520 cỗ trọng pháo, tổng cộng 112.800 sĩ quan và binh lính, đào chiến lũy dọc theo một triền đất cao, với sườn trái là thị trấn Rozerieulles, và sườn phải là Saint-Privat. Trước đó, Bazaine đã tiến quân đến Verdun nhưng do bị quân Phổ chặn đứng nên ông ta quyết định lập chiến tuyến giữa Rozerieulles và Saint - Privat.[33]

Khi lập phòng tuyến mới, quân Pháp đã quá mỏi mệt nên liền ngủ thiếp đi. Đại tướng Moltke lúc bấy giờ đang điều động binh mã Bắc tiến nhằm truy tìm quân Pháp, mà họ không hề hay biết rằng họ đang hành binh qua trực diện quân Pháp. Tuy nhiên, Bazaine không hề đánh tạt sườn quân Đức. Nhưng cuối cùng, lực lượng Kỵ binh Phổ phát hiện ra cứ điểm của địch[33]. Ngày 18 tháng 8, trận chiến bắt đầu từ lúc 8 giờ khi Moltke hạ lệnh cho Đệ Nhất và đệ Nhị đại quân tiến công các vị trí quân Pháp. Tới 12 giờ, Tướng Manstein cho pháo binh của sư đoàn 25 bộ binh Đức bắn vào quân Pháp ở làng Amanvillers. Tuy nhiên quân Pháp trong suốt đêm và rạng sáng ngày hôm đó đã đào chiến hào và hố cá nhân, đồng thời bố trí che chắn pháo binh và súng máy mitrailleuse. Khi biết hướng tấn công của quân Phổ, quân Pháp bắn ra như mưa vào các hàng dày đặc quân Phổ đang tấn công. Ban đầu, trận chiến nghiêng về phía quân Pháp vì súng trường Chassepot họ sử dụng lợi hại hơn súng trường của quân Phổ. Tuy nhiên, pháo binh Phổ với pháo đạn nạp hậu hiệu Krupp bằng thép của Phổ lại vượt trội hơn pháo của Pháp.

Tới 14 giờ 30, Tướng Steinmetz, chỉ huy Đệ Nhất đại quân Phổ, đơn độc tung quân đoàn 8 của mình vượt qua khe hẻm Mance Ravine, nhưng quân Phổ ngay tức khắc bị cầm chân vì hỏa lực dữ dội từ các vị trí quân Pháp. Tới 15 giờ, các quân đoàn 7 và 8 tập hợp trọng pháo lại rồi nổ súng yểm trợ cho quân Phổ tấn công. Nhưng tới 16 giờ, cuộc tấn công dứng trước nguy cơ bị chặn đứng, tướng Steinmetz hạ lệnh cho quân đoàn 7 tiến công, theo sau bởi sư đoàn kỵ binh số một.

Tới 16 giờ 50, cuộc tấn công của quân Phổ ở hướng nam đứng trước nguy cơ đỗ vỡ, Lữ đoàn 3 bộ binh Cận vệ Phổ thuộc Đệ Nhị Đại quân mở cuộc tấn công vào các vị trí quân Pháp tại Saint-Privat, do tướng Canrobert chỉ huy. Tới 17 giờ 15, Lữ đoàn 4 bộ binh Cận vệ Phổ cũng xung trận, theo sau là Lữ đoàn bộ binh Cận vệ số 1 lúc 17 giờ 45. Tất cả các cuộc công kích của quân Cận vệ Phổ đều bị hỏa lực khủng khiếp của quân Pháp từ chiến hào và công sự bắn lên cầm chân. Tới 18 giờ 15, Lữ đoàn bộ binh Cận vệ số 2 Phổ, đơn vị cuối cùng của Sư đoàn bộ binh số 1 Đức cũng được ném vào Saint-Privat, trong khi tướng Steinmetz huy động những lực lượng dự bị cuối cùng của Đệ Nhất Đại quân vượt qua hẻm Mance Ravine. Tới 18 giờ 30, một bộ phận đáng kể Quân đoàn 7 và 8 rời trận địa và rút lui về các vị trí đóng quân Phổ tại Rezonville.

Các cuộc tấn công của Đệ Nhất đại quân bị đánh bại, vị Hoàng tử nước Phổ là Friedrich Karl hạ lệnh dồn pháo bắn vào các vị trí quân Pháp của tướng Canrobert tại Saint-Privat để hỗ trợ cho cuộc tấn công của lính Cận vệ Phổ. Tới 19 giờ, sư đoàn 3 Phổ thuộc Quân đoàn 2, Đệ Nhị Đại quân của tướng Fransecky vượt qua được hẻm núi, trong khi Quân đoàn 12 quét sạch quân Pháp khỏi thị trấn Roncourt lân cận, rồi cùng những binh lính sống sót của Sư đoàn 1 bộ binh Cận vệ mở cuộc tấn công mới vào những đống đổ nát ở Saint-Privat. 20 giờ, Sư đoàn 4 bộ binh Phổ thuộc Quân đoàn 2 tiến vào trận địa, đồng thời quân Phổ cũng thiết lập được cánh trái tại hẻm núi Mance Ravine, mặt trận trở nên cân bằng. Cho tới lúc đó, quân Phổ thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 cùng Quân đoàn 12 và 2 chiếm được Saint-Privat, buộc các lực lượng Pháp bị hao tổn nặng nề phải rút lui. Với việc quân Phổ kiệt sức sau cuộc giao chiến, thời cơ đến cho quân Pháp mở cuộc phản công, tuy nhiên tướng Bourbaki không chịu tung các lực lượng dự bị Cựu Cận vệ Pháp xung trận, vì ông ta đánh giá tình hình là thất trận. Như vậy, cuối cùng quân Đức cũng đánh tạt sườn phải của địch và quân Pháp đại bại thảm hại.[33] Trong đêm trường những đạo quân Đức khác cùng với Quân đội Phổ hát vang lên bài Thánh ca "Nun danket alle Gott" để ca ngợi chiến thắng của họ, tuy nhiên phải khá lâu sau đó thì Quốc vương Wilhelm I mới thừa nhận trận huyết chiến tại Gravelotte là chiến thắng của quân Đức.[109]

Từ 22 giờ, tiếng súng yên dần trên toàn trận địa cho tới hết đêm. Sáng hôm sau, Đạo quân sông Rhine của Pháp, thay vì tiếp tục trận đánh và mở cuộc phản kích vào các cánh quân Phổ kiệt sức sau trận giao chiến, lại rút lui về Metz và bị bao vây, cho tới khi họ buộc phải hạ vũ khí đầu hàng hai tháng sau. Do đó, cuộc lui quân về Metz của Bazaine được coi là thời khắc quyết định của cuộc chiến tranh đế quốc, và thể hiện tầm vóc quan trọng của trận đại thắng ở Gravelotte đối ới người Phổ - Đức.[23] Một khi Bazaine bị xiết chặt tại Metz, không khó gì cho các chiến sĩ Đức tập trung vào đánh đội quân Pháp của Thống chế MacMahon (sẽ bị quân Đức tiêu diệt trong trận chiến Sedan).[33]

Trận đánh Gravelotte là một trong những trận chiến khốc liệt nhất của thế kỷ XIX.[32] Tổn thất sau trận đánh hết sức khủng khiếp, đặc biệt là với các đội quân Phổ tham gia tấn công. Tổng cộng 20.163 chiến sĩ Đức hy sinh, bị thương hoặc mất tích trong riêng trận chiến diễn ra ngày 18 tháng 8. Quân Pháp mất 7.855 người bị giết, bị thương cùng 4.420 quân bị bắt làm tù binh – trong số đó một nửa bị thương - tổng cộng là 12.275 người. Trong khi phần lớn thương vong của quân Phổ gây ra bởi súng trường Chassepot của quân Pháp, phần lớn thương vong của quân Pháp là do đạn pháo Krupp. Chi tiết thiệt hại có thể kể đến: Quân đoàn 2 của tướng Frossard thuộc Đạo quân sông Rhine bị thương vong 621 người, nhưng giáng vào quân Phổ thuộc quyền tướng Steinmetz của Đệ Nhất Đại quân 4.300 thương vong tại Pointe du Jour. Các sư đoàn bộ binh Cận vệ Phổ còn tổn thất nặng hơn nữa, mất 8.000 người trong tổng số 18.000 binh lính. Lực lượng Cận vệ đặc biệt Jäger mất 19 sĩ quan, một bác sĩ quân y và 431 binh lính trong tổng số 700 người. Lữ đoàn 2 bộ binh Cận vệ mất 39 sĩ quan và 1.076 binh lính. Lữ đoàn 3 bộ binh Cận vệ mất 36 sĩ quan và 1.060 binh lính. Về phía quân Pháp, các đơn vị phòng ngự Saint-Privat mất hơn nửa quân số. Dầu sao đây nữa, đại thắng tại Gravelotte của quân Phổ - Đức cũng là một chiến thắng rất ấn tượng. Cho dầu quân Pháp có thế mạnh hơn hẳn trong trận huyết chiến này, lòng trung dũng đã mang lại chiến thắng cho các chiến sĩ Đức.[32]

Trận vây hãm pháo đài Metz

Bài chi tiết: Trận vây hãm Metz

Sau khi Đạo quân sông Rhine Thống chế Bazaine bị đánh bại tại Gravelotte, quân Pháp phải rút về Metz và bị hơn 150.000 quân Phổ thuộc Quân đoàn một và Quân đoàn hai vây hãm. Metz là một pháo đài kiên cố bậc nhất của Pháp lúc bấy giờ, được bảo vệ bởi 7 pháo lũy bao quanh, cách trung tâm thành phố khoảng 2, 3 km để giúp cho thành phố khỏi bị pháo uy hiếp. Trong thành phố có dự trữ một lượng khả dĩ lương thực có thể dùng trong nhiều tháng. Quân Pháp vài lần định tổ chức phá vây, nhưng đều bị quân Phổ đánh lui. Thống chế Bazaine dù trước đó có tiếng là thống chế trẻ tuổi và tài ba bậc nhất nước Pháp lúc bấy giờ cũng bị vướng chân bởi nạn quan liêu trong bộ máy hành chính, nên quân Pháp hoạt động rất chậm chạp và thiếu hiệu quả, thêm vào đó, bộ tham mưu và những phụ tá của ông lại mâu thuẫn với nhau.

Thống chế Bazaine dự định cố thủ tại Metz, chờ quân Đức tấn công vào các vị trí kiên cố, được bố phòng cẩn thận của mình, để cầm chân gần 200.000 quân Đức. Tuy nhiên sức ép Hoàng hậu và công luận tại Paris buộc Napoléon III không thể lui lại, mà phải đưa các lực lượng dự bị cuối cùng của Pháp là Đạo quân Châlons đánh giải vây cho Metz.[23] Kết quả hết sức tai hại, Đạo quân Châlons bị đánh bại và phải hạ vũ khí đầu hàng tại Sedan, tình hình Metz trở nên tuyệt vọng vì Pháp không còn lực lượng dự bị nào để ứng cứu cho Metz. Tệ hơn là do sự quan liêu của quan chức Pháp mà hậu cần cho quân Pháp hóa ra hết sức bất cập. Lương thực tuy đủ dùng nhưng không hợp với binh lính Pháp, nên đến cuối cuộc vây hãm, rất nhiều binh lính Pháp bị ốm, bị bệnh. Pháo đài Metz tuy kiên cố nhưng vốn được thiết kế cho một lực lượng đồn trú nhỏ, nay phải căng ra để chứa một đạo quân rất lớn, cộng với 60.000 dân bản địa và một số dân chúng quanh vùng chạy nạn, nên những vật tư thiết yếu bị thiếu nghiêm trọng. Quân Phổ do nắm được tình hình quân Pháp nên không tổ chức tấn công vào pháo đài để tránh thiệt hại, mà vây hãm quân Pháp cho tới khi quân Pháp hoàn toàn kiệt quệ. Tuy Moltke viết rằng: "cuộc vây hãm Metz không làm nên một phần nào trong kế hoạch nguyên thủy của chiến dịch", quân Pháp đã đại bại nên không còn sự lựa chọn.[31] Tới ngày 27 tháng 10, 180 ngàn quân Pháp buộc phải hạ vũ khí đầu hàng.

Với Metz thất thủ, các lực lượng còn sót lại duy nhất của Pháp đầu hàng, Pháp không còn quân đội chính quy, đồng thời các lực lượng Phổ bao vây Metz cũng được giải phóng để tham gia các mặt trận khác, kết cục chiến tranh đã được định đoạt. Thống chế Bazaine bị xử án vắng mặt và bị buộc tội phản quốc, kết án tử hình, nhưng về sau Thống chế Mac-Mahon, lúc bấy giờ là Tổng thống Pháp giảm án thành đi đày biệt xứ 20 năm. Sau này có ý kiến cho rằng Thống chế Bazaine cũng chỉ là một nạn nhân, vì ông đã làm hết những gì có thể, và ông chẳng qua là vật tế thần để trút nỗi hận thua trận của người Pháp. Thực chất, thất bại thê lương của Bazaine chỉ chứng tỏ sự lãnh đạo yếu kém của ông mà thôi.[23] Sau một thời gian đi đày, ông trốn thoát khỏi nơi giam cầm và đi tỵ nạn chính trị.

Trận Sedan

Bài chi tiết: Trận Sedan
Napoléon IIIBismarck sau Trận Sedan

Sau một loạt chiến bại của quân Pháp[20], Napoléon III, cùng Thống chế Mac-Mahon, thành lập Đạo quân Châlons tiến về Metz để giải nguy cho Thống chế Bazaine. Napoléon III đích thân chỉ huy quân đoàn với Thống chế Mac-Mahon, hành binh theo cánh trái theo hướng biên giới Bỉ để tránh đụng độ với các lực lượng Phổ trước khi quặt về hướng nam để hội quân với Bazaine.

Quân đội Phổ, dưới quyền chỉ huy của Đại tướng, Bá tước Helmuth von Moltke, tận dụng sự yếu kém của cuộc hành binh này để kẹp quân Pháp trong một gọng kìm. Để lại Đệ Nhất và đệ Nhị đại quân Phổ tiếp tục vây hãm Metz, Moltke thành lập Đạo quân sông Meuse dưới sự chỉ huy của Thái tử Sachsen bằng cách tách ra 3 quân đoàn từ các cánh quân này, rồi đưa đạo quân này cùng Đệ Tam đại quân Phổ tiến lên hướng bắc cho tới khi bắt kịp quân Pháp tại Beaumont ngày 30 tháng 8. Sau một trận kịch chiến, quân Pháp mất 5.000 người và 40 khẩu pháo, phải rút về Sedan. Sau khi vừa tập hợp lại lực lượng, Đạo quân Châlons đã ngay lập tức bị các đạo quân Phổ hợp vây. Napoléon III hạ lệnh nhanh chóng phá vây. Do Thống chế Mac-Mahon bị thương một ngày trước đó, tướng Auguste-Alexandre Ducrot nắm quyền chỉ huy quân Pháp. Sedan chính là nơi mà quân Phổ đã tấn công hồi năm 1815 sau khi đánh bại hoàn toàn Napoléon I trong trận huyết chiến tại Waterloo.[110]

Đại quân Pháp đóng cứ với vị trí hết sức là không thuận lợi[35]. Ngày 1 tháng 9 năm 1870, trận chiến mở màn khi Đạo quân Châlons, với 202 tiểu đoàn bộ binh, 80 khối kỵ binh và 564 pháo, tấn công Đệ Tam đại quân Phổ và Đạo quân sông Meuse với tổng cộng 222 tiểu đoàn bộ binh, 186 khối kỵ binh và 774 pháo. Tướng De Wimpffen, chỉ huy Quân đoàn 5 dự bị, hy vọng mở cuộc tấn công kết hợp bộ binh và kỵ binh vào Quân đoàn 11 Phổ, nhưng tới 11 giờ, pháo binh Phổ gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp trong khi ngày càng nhiều quân Phổ tiến về chiến trường. Kỵ binh Pháp, chỉ huy bởi tướng Marguerite, xung phong ba lần vào làng Floing gần đó, nơi Quân đoàn 11 Phổ tập trung. Tướng Marguerite bị giết ngay từ cuộc xung phong đầu tiên khi đang chỉ huy kỵ binh, và hai cuộc xung phong kế tiếp cũng bị đẩy lui với tổn thất rất nặng nề. Lúc quân Pháp tất yếu đã thảm bại, tướng Bazaine có lời bàn (Nous sommes dans le pot de chambre, et demain nous serons emmérdes):[55]

Chúng ta đang ở trong một cái lọ rỗng, và ngày hôm sau chúng ta sẽ bị che khuất ở trong đó.
— Bazaine
Tướng Pháp là André-Charles-Victor Reille trình vua Wilhelm I thư xin hàng của Napoléon III, họa phẩm của Carl Steffeck.

Trong một đợt công kích của quân Pháp, đội Khinh Kỵ binh Chasseur d'Afrique đã bị Quân đội Đức tiêu diệt hoàn toàn.[111] Tới cuối ngày, khi hy vọng phá vây không còn, Napoléon III hủy bỏ lệnh tấn công. Quân Pháp mất hơn 17.000 người chết và bị thương, với 21.000 người bị bắt sống. Quân Phổ mất 2.320 người bị giết, 5.980 bị thương và 700 người bị bắt hoặc mất tích.

Ngày hôm sau, ngày 2 tháng 9, trước tình thế quân Đức vây bọc quân Pháp,[35] Napoléon III đầu hàng và bị bắt làm tù binh cùng 104.000 binh lính Pháp. Với tính chất quyết định,[35] đó là một chiến thắng toàn diện với quân Phổ, vì họ không những bắt làm tù binh hoàn toàn quân đội Pháp, mà cả Hoàng đế Pháp. Thủ tướng Bismarck đã gặp gỡ Napoléon III trong căn nhà riêng của ông ở nông thôn, trong khi Napoléon III thì luôn lo sợ mình sẽ bị dân chúng Pháp lật đổ.[86] Thắng trận Sedan là người Phổ đã chiến thắng trong cả cuộc chiến tranh. Bazaine vẫn cứ tiếp tục bị vây hãm tại Metz - tạo điều kiện cho sự đầu hàng của ông ta sau này.[86] Chiến thắng vang dội này cũng mang lại vinh quang cho Bismarck và kết cục không may của Napoléon III: ông bị giam cầm trong Lâu đài Wilhelmshöhe trước khi được cho về thị trấn Chislehurst, rồi phải bỏ chạy sang Anh Quốc,[36] và chết hai năm sau.[12] Chỉ sau có sáu tuần chiến sự[24], mà chiến thắng oanh liệt của Quân đội Phổ cũng là một đòn giáng mạnh mẽ đánh gục hoàn toàn sức mạnh quân sự của nền Đệ Nhị Đế chế Pháp.[15] Với đạo quân Pháp bị cầm chân và vây hãm trong thành phố Metz, người Pháp không còn lực lượng nào có thể cản nổi sức tấn công của quân Phổ, tuy vậy cuộc chiến sẽ vẫn còn tiếp diễn trong 5 tháng nữa. Dẫu sao đây nữa thì đại thắng huy hoàng tại Sedan của Quân đội Đức đã đưa tình đoàn kết to lớn của các quốc gia Đức lên tới đỉnh điểm.[112] Nếu như chiến thắng hủy diệt của quân Phổ trong trận này đã mang lại kết cục thiếu vinh quang cho Napoléon III, thì nó đồng thời đem lại đỉnh cao vinh quang cho Bismarck, đặt nền móng vững chắc cho thắng lợi về mặt chính trị của ông.[12] Khắc họa sự quyết đoán của Tổng Tham mưu trưởng Moltke và quyết định số mệnh của nước Pháp thất trận, chiến thắng vinh hiển của Quân đội Phổ trong trận chiến tại Sedan được đánh giá là một "Trận Cannae của thế kỷ thứ XIX", do sự tương đồng của đại quân Pháp bị vây bọc và hủy diệt hoàn toàn với Quân đội La Mã trong trận chiến tại Cannae trong cuộc Chiến tranh Punic lần thứ hai thời cổ đại.[39][113] Trận chiến tại Sedan đã trở thành một trong những chiến thắng lẫy lừng nhất gắn liền với nền quân sự Phổ trong suốt chiều dài của mình.[67] Trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức lần thứ ba vào năm 1940, nước Đức Quốc xã dưới trào Lãnh tụ Adolf Hitler sẽ còn đại thắng một trận quyết định không kém tại Sedan, làm tăng thêm tính huyền thoại của Sedan trong suốt chiều dài lịch sử quân sự Phổ - Đức.[38]

Như một tuyệt tác của Tổng Tham mưu trưởng bậc thầy Von Moltke, chiến thắng hùng tráng, "thiêng liêng" tại trận Sedan được nhân dân Đức đánh giá rất cao, như một bước ngoặt trong lịch sử nhân loại. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1870, tại Nhà hát Mới ở Leipzig, người Đức làm lễ ăn mừng chiến thắng.[37] Nếu chiến thắng vẻ vang tại trận Leipzig (Trận Liên Quốc gia năm 1813) trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Dân tộc Đức chống lại ách đô hộ của Napoléon I được coi là "ngày sinh của dân tộc Đức" thì chiến thắng lừng lẫy tại trận Sedan trở thành "ngày sinh của Đế quốc Đức".[114] Chỉ sau một thời gian ngắn mà cuộc tiến công nhanh gọn của các đoàn binh Phổ thiện chiến đã khiến quân Pháp trở nên nhục nhã.[36] Trong suốt những ngày cuối đời, vị Hoàng đế bại trận và ô nhục Napoléon III luôn luôn là một con người cay đắng.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Pháp-Phổ http://www.net4war.com/e-revue/dossiers/2empire/18... http://www.net4war.com/e-revue/dossiers/2empire/18... http://www.deuframat.de http://www.deutsche-schutzgebiete.de/dfkrieg.htm http://ml.hss.cmu.edu/courses/mjwest/Chapter_2_186... http://www.laguerrede1870enimages.fr http://www.loire1870.fr/index.htm http://www.omaha-beach.org/Travel/1870/1870-71.htm... http://books.google.com.vn/books?ei=QtMTT__WM6eTiA... http://books.google.com.vn/books?hl=vi&id=LH49AAAA...